Cho dù bạn biết bao nhiêu về cá koi, vẫn luôn có nhiều câu chuyện được chia sẻ! Có rất nhiều điều thú vị để tìm hiểu về cá koi nên bạn nên tìm hiểu điều gì mới với 5 kiến thức lịch sử về cá koi này.
Cá Koi ban đầu được đưa đến Nhật Bản như một nguồn thực phẩm
Môi trường sống tự nhiên của cá Koi ở biển Đen, biển Caspi và biển Aral ở Châu Á, và Trung Quốc là nơi khởi đầu thực sự của cá Koi. Theo lịch sử Trung Quốc, con trai của Khổng Tử được vua Shoko xứ Ro tặng một con cá chép đột biến và từ đó con cá trở thành chủ đề của nhiều tác phẩm nghệ thuật Trung Quốc. Khi người Trung Quốc xâm lược Nhật Bản, những con cá chép này được nuôi làm nguồn thực phẩm, đây là khởi đầu của cá Koi Nhật Bản. Koi (trong tiếng Nhật có nghĩa là cá chép) được nuôi lần đầu tiên ở Nhật Bản vào những năm 1820, ban đầu là ở thị trấn Ojiya, vùng Niigata của Nhật Bản. Trong khi chúng vẫn được nuôi để làm thức ăn, những con cá nâu này đôi khi tạo ra các đột biến màu đỏ và xanh lam. Thông qua quá trình lai tạo chọn lọc, giống cá koi đỏ và trắng – được gọi là cá koi cảnh hiện đại – cuối cùng đã được hoàn thiện vào năm 1870. Thế giới bên ngoài đã không biết về sự phát triển của các biến thể màu sắc ở cá koi Nhật Bản cho đến năm 1914, khi cá koi Niigata được trưng bày tại triển lãm hàng năm ở Tokyo. Từ đó, sự quan tâm đến cá koi lan rộng khắp Nhật Bản. Hơn 100 giống màu sắc đã được lai tạo từ loài cá duy nhất này, bao gồm cả một giống không vảy ở Đức hiện nay được gọi là cá gương hoặc Doitsu-goi / cá chép Đức.
Cá Koi là hậu duệ của loài cá Chép
Cá Koi là hậu duệ của loài cá Chép cứng cáp, rất dễ thích nghi và có thể tìm thấy nó trên khắp thế giới
Cá chép thường là một loài cá khá mạnh mẽ, và koi có thể giữ được độ bền. Koi là loài cá nước lạnh, nhưng có lợi khi được nuôi trong phạm vi 15–25 ° C (59–77 ° F), và không phản ứng tốt với nhiệt độ mùa đông dài và lạnh. Hệ thống miễn dịch của chúng rất yếu dưới 10 ° C. Hồ cá koi thường có độ sâu từ một mét trở lên ở những khu vực trên thế giới trở nên ấm áp vào mùa hè, trong khi ở những khu vực có mùa đông khắc nghiệt hơn, ao thường có độ sâu tối thiểu là 1,5 m (5 ft).
Cá Koi được phát triển bởi những người nông dân Nhật Bản
Cá koi trong tự nhiên có màu nâu, nhưng qua quá trình lai tạo chọn lọc của người Nhật, nhiều màu sắc và hoa văn đã được phát triển. Vào thế kỷ 17, nông dân trồng lúa ở Trung Quốc bắt đầu nuôi cá chép trong ruộng lúa của họ như một loại cá thực phẩm. Thực hành này đã tìm thấy đường đến Nhật Bản. Những người nông dân trồng lúa Nhật Bản bắt đầu nhận thấy sự thay đổi màu sắc nhẹ ở một vài con cá chép và họ thấy tiềm năng lớn để làm nổi bật màu sắc rực rỡ của chúng. Do đó, những người nông dân đã lai tạo những con cá chép này thành thứ mà ngày nay chúng ta biết đến với cái tên Nishikigoi.
Cá Koi được thế giới chú ý sau khi một con được tặng cho hoàng đế Nhật Bản
Cá Koi được thế giới chú ý sau khi một con được tặng cho hoàng đế Nhật Bản vào năm 1914 để làm đẹp cho các cung điện hoàng gia
Sự phổ biến của cá Koi Nhật Bản nhanh chóng tăng lên, mặc dù các quốc gia khác vẫn chưa thực sự chú ý đến loài cá đáng yêu này, và ngay sau đó nó đã trở thành loài cá được mong muốn nhất trong nước. Cá Koi trở nên phổ biến ở Nhật Bản đến nỗi nó được coi là một món quà hoàn hảo cho hào cung của Hoàng đế Hirohito vào năm 1914. Buổi giới thiệu này đã thu hút sự chú ý của mọi quận trên thế giới và ngay sau đó cá Koi Nhật Bản đã thu hút được trái tim của hàng triệu người.
Cá Koi và cá vàng là anh em họ xa
Cá Koi và cá vàng là anh em họ xa vì cả hai đều xuất thân từ Cá chép, nhưng cá vàng xuất hiện từ rất lâu trước khi cá Koi có.
Cả cá koi và cá vàng đều có nguồn gốc từ cá chép nên chúng thực chất là họ hàng xa. Cá vàng lâu đời hơn cá koi. Cá vàng đã được phát triển ở Trung Quốc hơn 1.000 năm trước trong khi cá koi chỉ xuất hiện trong các ao của chúng ta từ những năm 1820. Cá koi và cá vàng cho thấy có những điểm giống và khác nhau về màu sắc, hình dạng cơ thể và tuổi thọ của chúng.