Cá trắm đen, hay còn gọi là Magoi, ban đầu được đưa đến Nhật Bản khi người Trung Quốc tới xâm lược vào khoảng năm 200 trước Công nguyên.

Người Nhật được biết đến là những người đầu tiên trong lịch sử lai tạo ra những giống cá Koi có đột biến tự nhiên, với nhiều màu sắc đa dạng.

Những người nông dân trồng lúa ở Nhật Bản đã từng nuôi cá Koi làm thực phẩm khi chúng mới được du nhập vào đất nước. Bấy giờ, bạn có thể tìm thấy chúng trên những cánh đồng lúa ở Nhật Bản. Khi những người nông dân bắt đầu nhận thấy những đột biến xảy ra do lai tạo, họ bắt đầu tự nhân giống cá Koi một cách có chọn lọc để có lớp vảy đầy màu sắc và hấp dẫn. Hoạt động này được cho là bắt đầu vào đầu những năm 1800, từ đó những giống cá sớm nhất, chẳng hạn như Narumi Asagi ra đời.

Lịch Sử Của Loài Cá Koi Bạn Nên Biết
Lịch Sử Của Loài Cá Koi Bạn Nên Biết

Giống cá được lai tạo một cách tình cờ là Magoi với bụng màu đỏ. Magoi bụng đỏ kết hợp với Higoi tạo ra Benigoi. Điều này đã dẫn đến việc tạo ra Hi và Ki Bekkos với các mảng màu đen.

Asagi màu xanh nhạt đã tạo ra cá Koi màu trắng. Asagi có thân màu trắng, hay còn gọi là Taki Asagi, được sử dụng để lai tạo ra những con Kohaku đầu tiên, và sau đó là Goshiki và Goromo.

Taki-asagi Koi đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra cá chép trắng có đốm đỏ, đây là những con cá chép có màu đầu tiên được gọi là Kohaku, chúng chính là loài cá Koi được nuôi phổ biến nhất hiện nay.

Kohaku đã được lai tạo với Goshiki hoặc Asagi để tạo ra Sanke và Shiro Bekko.

Thành phố Ojita ở Niigata giờ đây đã có rất nhiều giống cá Koi mới. Khi những người đi qua thành phố nhìn thấy những con cá xinh đẹp, có màu sắc rực rỡ này, việc nuôi cá Koi như một thú vui đã bắt đầu trở nên phổ biến trên khắp thế giới.

Niigata, Nhật Bản là nơi đi đầu trong việc phát triển cá Koi. Những người nông dân ở đây là những người duy nhất tích cực trong việc lai tạo ra những con cá Koi đột biến này, tạo ra giống cá chép Koi mà chúng ta biết đến ngày nay. Những người nông dân trồng lúa nhận ra rằng họ có thể tiếp tục lai tạo tất cả các dạng Magoi mới để tạo ra các biến thể màu sắc khác nhau, tạo ra nhiều nhu cầu và lợi nhuận hơn nữa.

Ngoài Niigata, thế giới không hề biết đến những biến thể cá Koi nhiều màu sắc này, mãi cho đến khoảng năm 1914. Đây là khi cá Koi từ Niigata đã được trưng bày tại một cuộc triển lãm ở Tokyo.

Mặc dù ngày càng phổ biến, việc nuôi cá Koi đã phải tạm dừng do Chiến tranh thế giới thứ 2. May mắn thay, những người nuôi cá Koi Nhật Bản đã truyền lại kiến ​​thức của họ cho những thế hệ sau, những người thực sự có thể cứu cá Koi trong và sau chiến tranh. Thời gian khó khăn đó đã khiến phần lớn cá chép Koi bị chết do thiếu thức ăn. May mắn thay, vẫn còn một số cá Koi được giữ an toàn trong các ao chùa. Sau chiến tranh, việc sinh sản của cá Koi lại được tiếp tục.

Với rất nhiều giống cá Koi hiện nay, bạn sẽ thấy khó hiểu khi không biết mỗi loại cá được sinh ra như thế nào. Chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn sơ đồ để bạn hiểu rõ hơn về cách cá Koi phát triển màu sắc và hoa văn độc đáo của mình. Điều quan trọng bạn cần lưu ý là hiện nay có hàng trăm giống cá Koi khác nhau, không phải giống cá nào cũng được liệt kê.

Có thể bạn thích:   Cách xác định giới tính cho cá Koi của bạn
Lịch Sử Của Loài Cá Koi Bạn Nên Biết
Lịch Sử Của Loài Cá Koi Bạn Nên Biết

Asagi: Một trong những giống cá Koi lâu đời nhất; được lai tạo cách đây 160 năm bởi Asagi Magoi.

Ki Bekko: Được lai tạo vào khoảng nửa cuối những năm 1800 bởi Magoi và Higoi.

Kohaku: Được lai tạo bởi một con cái màu trắng với đầu đỏ và một con đực màu trắng có hoa văn hình hoa anh đào.

Sanke: Được tạo ra vào khoảng năm 1917 sau khi lai tạo Kohaku với Shiro Bekko.

Shusui: Được lai tạo vào khoảng năm 1910 bởi một con Asagi và một con cá chép gương Doitsu.

Ki Utsuri: Bắt đầu được lai tạo vào khoảng năm 1921 bởi một con Ki Bekko và một con Asagi Magoi.

Shiro Utsuri: Được lai tạo lần đầu vào khoảng năm 1925 giữa Magoi và một giống cá khác chưa biết tên.

Showa: Năm 1926, Showa được lai tạo bởi Hi Utsuri và Kohaku.

Yamabuki Ogon: Được lai tạo lần đầu tiên vào năm 1957 giữa một con Ogon màu sáng và một con Ki-goi.

Doitsu Kujaku: Được lai tạo lần đầu tiên vào những năm 1960 giữa Hariwake và Shusui.

Purachina: Được lai tạo vào năm 1963 giữa Ki-Goi và Ogon.

Beni Kumonryu: Một dạng hiếm của Kumonryu, giống này được lai tạo lần đầu tiên vào năm 1980 giữa Kumonryu và Doitsu Kohaku.

Kikokuryu: Một trong những giống cá chép Koi mới, chúng được lai tạo lần đầu tiên vào đầu những năm 1990 giữa Kumonryu và Kikusui.